Net zero: Việt Nam cần hệ thống pháp lý và chính sách mạnh mẽ
Tại Hội nghị COP28 diễn ra ở Dubai, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã công bố các chương trình hành động của Việt Nam nhằm hiện thực hóa cam kết đạt thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đây là một cam kết mạnh mẽ từ Chính phủ Việt Nam.
Nhưng để hành trình này đạt được hiệu quả, cần có một khung pháp lý đủ mạnh và ổn định để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư. Thông điệp đã rõ nhưng các chương trình hành động được ban hành dưới hình thức các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đôi khi cũng chưa đủ sức nặng pháp lý. Các quyết định dù cũng là văn bản quy phạm pháp luật nhưng tính pháp lý của nó rõ ràng là nhẹ hơn luật, pháp lệnh hay nghị định.
Trong bối cảnh hệ thống luật pháp của Việt Nam còn tồn tại nhiều chồng chéo, mâu thuẫn như hiện nay, những quy định trong các chương trình hành động được Thủ tướng Chính phủ ban hành khó có thể phát huy hiệu quả một khi có sự lệch pha với các văn bản pháp luật khác.
Trong khi đó, để có thể yên tâm khi bỏ ra số vốn rất lớn đầu tư cho việc chuyển đổi xanh, doanh nghiệp cần được bảo đảm chắc chắn rằng các mục tiêu trong các chương trình hành động phải được thực thi để tránh rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan như từng xảy ra với chương trình thay thế xăng khoáng bằng xăng E5 và E10.
Theo Quyết định 53 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động nhằm thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 năm 2050
- Đến năm 2030 sử dụng 100% xăng E5 cho phương tiện cơ giới đường bộ.
- Đến năm 2050, 100% xe cơ giới đường bộ, tàu hỏa, tàu thủy phải chuyển sang chạy bằng điện hoặc năng lượng xanh.
- Đến năm 2040, hạn chế tiến tới cấm sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu các loại xe chạy bằng nhiên liệu hóa thạch.
- Từ năm 2030, hạn chế đầu tư mới nhà máy nhiệt điện than, chuyển đổi dần nhà máy nhiệt điện than còn tồn tại sang chạy bằng năng lượng tái tạo hoặc khí đốt.
Để có thể thực hiện hóa các mục tiêu trên, cần có sự đầu tư lớn của cả nhà nước và khu vực tư nhân. Trong đó, sự tham gia của khu vực tư nhân mang tính chất quyết định. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực đầu tư còn nhiều rủi ro về thị trường và đặc biệt là rủi ro về chính sách. Nếu Chính phủ không có chính sách để hỗ trợ, đặc biệt là sự bảo đảm bằng luật thay vì bằng các quyết định, thì khó có thể khuyến khích các nhà đầu tư tham gia.
Sự thất bại của những doanh nghiệp tiên phong đầu tư và sản xuất để pha chế xăng sinh học trước đây, hay loạt nhà đầu tư vẫn đang mắc kẹt với các dự án điện gió và điện mặt trời hiện nay là bằng chứng cho thấy sự cần thiết của một hệ thống pháp lý và chính sách an toàn, ổn định. Một khi chính sách và quy định có sự chắc chắn, thì doanh nghiệp cũng khó mà an tâm để tham gia đầu tư. Để hiện thực hóa tầm nhìn phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống pháp lý và chính sách an toàn, ổn định, đủ sức bảo đảm cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư.
(Video: V.Dũng – Trúc Nhã)